Hơn 250.000 thí sinh không tham gia xét tuyển
ĐH,CĐ: Có đáng lo ngại ?
Năm nay có 900.152 thí sinh đăng ký dự thi tốt
nghiệp THPT nhưng chỉ có 643.122 thí sinh đăng ký xét tuyển ĐH, CĐ, chiếm
71,45%, giảm 9.878 thí sinh so với năm 2019. Vậy con số này có đáng lo ngại?
Thí sinh tỉnh Hòa Bình dự tư vấn
tuyển sinh vào đại học năm 2020
Tổng chỉ tiêu xét
tuyển đại học năm 2020 tăng thêm khoảng 10%
Theo thống kê của bộ
GD&ĐT, trong số 900.152 thí sinh đăng ký dự thi tốt nghiệp THPT (trong đó
có 51.712 thí sinh tự do, chiếm 5,74%) nhưng chỉ có 643.122 thí sinh đăng ký
xét tuyển ĐH, CĐ – chiếm 71,45%, giảm 9.878 thí sinh so với năm 2019.
Tổng số lượng nguyện
vọng xét tuyển ĐH,CĐ là 2.490.171; trong đó, nguyện vọng 1 là 640.637, nguyện
vọng 2 là 519.449, nguyện vọng 3 là 408.519, nguyện vọng 4 là 293.587, nguyện
vọng 5 là 212.560 và nguyện vọng còn lại là 415.419.
Trước đó, thứ trưởng
Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc cho biết, năm 2020, tổng chỉ tiêu xét tuyển đại
học sẽ tăng thêm khoảng 10% so với năm 2019, khoảng trên 500.000 chỉ tiêu. Các
trường ở top trên có mức độ cạnh tranh cao thì số chỉ tiêu tuyển sinh chiếm
chưa đến 10%. Vì vậy nếu có kết quả thi tốt thì cơ hội vào đại học của các thí sinh
rất rộng mở.
Theo thống kê của Bộ
GD&ĐT năm 2019, số thí sinh đăng kí dự thi (ĐKDT) 887.104; Số thí sinh thi
chỉ xét tốt nghiệp THPT 223.976.
Số thí sinh ĐKXT vào
Đại học, CĐSP, TCSP (tỷ lệ 73,62% số ĐKDT) là 653.128.
Toàn hệ thống giáo dục
đại học năm 2019 có 529.754 chỉ tiêu, tỷ lệ nhập học là 411.603 đạt 77,70%.
Tuy nhiên, chỉ có 49,86% số trường đạt chỉ tiêu tuyển sinh trên 70%;
66,20% số trường đạt trên 50% chỉ tiêu.

Số thí sinh vào đại học
ngày càng ít đi, liệu đây có phải con số đáng lo ngại?
Sau khi thi tốt nghiệp
THPT mới phân luồng sẽ không còn ý nghĩa
Ông Mai Văn Trinh, Cục
trưởng Cục Quản lý chất lượng, Bộ GD&ĐT cho biết, việc tỷ lệ thí sinh đăng
ký xét tuyển vào ĐH, CĐ giảm (năm 2019, tỷ lệ này là 74,01%; năm 2018 là
74,37%) là xu hướng tích cực, thể hiện việc phân luồng chúng ta làm ngày càng
tốt hơn.
Tuy nhiên, PGS.TS Bùi
Đức Triệu, Trưởng phòng đào tạo trường ĐH Kinh tế quốc dân cho biết, số liệu
cho thấy, việc phân luồng cần được tăng cường hơn nữa. Bên cạnh đó, các trường
đại học cần quen với việc thí sinh “ảo”, vì đó là tất yếu trong quá trình tự
chủ và quyền chọn thuộc về người học.
Trao đổi với PV Dân
trí, hiệu trưởng của một trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội cho rằng, việc
phân luồng phải từ ngay sau khi học sinh tốt nghiệp THCS, một hướng đi học
nghề, một hướng học tiếp lên THPT,.. mới đúng nghĩa phân luồng và mới
đúng chủ trương phân luồng của Nhà nước.
Còn sau khi thi tốt
nghiệp THPT mới phân luồng thì không còn ý nghĩa, lãng phí thời gian, tiền bạc
và nguồn nhân lực. Vì vậy, Thủ tướng đã ký ban hành Chỉ thị số 24, ngày
28/05/2020, cho phép đào tạo cao đẳng học sinh tốt nghiệp THCS, chỉ cần 3-4 năm
học, học sinh đã có bằng tốt nghiệp cao đẳng, còn nếu, sau khi tốt nghiệp THPT
mới quay lại học cao đẳng, thì phải mất 5-6 năm học mới có bằng tốt nghiệp cao
đẳng, rõ ràng là chênh nhau đến 2 năm học.
Còn về tỷ lệ ảo trong
đăng ký dự thi, vị cán bộ tuyển sinh này cho biết, không tránh khỏi vì chính
sách thi và tuyển sinh dẫn đến ảo.
Trao đổi với PV Dân
trí, một chuyên gia tuyển sinh khác cho biết, bao nhiêu học sinh đăng ký
không quan trọng bằng bao nhiêu thí sinh nhập học đại học. Nếu số học sinh đăng
ký xét tuyển giảm mà số nhập học tăng hoặc giữ nguyên thì mới có nền giáo dục
đại học chất lượng.
Vị chuyên gia này cho
rằng, mấy năm qua, con số học sinh THPT vào ĐH là hơn 400.000, bằng khoảng 40%
số học sinh dự thi tốt nghiệp. Số này bằng khoảng 20% dân số ở độ tuổi 18.
Trong khi số sinh viên đại học độ tuổi học đại học ở Việt Nam đang thấp so với
các nước trong khu vực. Chính vì vậy sẽ dẫn đến nguy cơ tụt hậu trong bối
cảnh cách mạng CN.4.0
Dự báo số lượng thí sinh vào đại học
ngày càng giảm trong các năm tới:
Tỷ lệ học sinh vào đại
học tiếp tục giảm mạnh
Trước đó, trao đổi với
PV Dân trí khi phân tích về giáo dục đại học Việt Nam trong 10
năm tới, GS.TS Lê Vinh Danh, Hiệu trưởng trường ĐH Tôn Đức Thắng cho rằng, số
lượng học sinh thay đổi bất thường trong 10 năm qua. Cụ thể, tỷ lệ sinh ở Việt
Nam giảm mạnh trong giai đoạn 10 năm qua 1992-2001 là lý do chính khiến số
lượng học sinh học hết phổ thông trung học nhập học vào các trường đại học giai
đoạn 18 năm sau (2010-2017) thay đổi bất thường và giảm liên tục.
Cụ thể, nếu năm 1992,
tỷ lệ là 3,26, năm 1992, tỷ lệ là 3,09… năm 2000, tỷ lệ giảm còn 2,01,
năm 2001 xuống thấp nhất là 1,95. Từ năm 2001 đến năm 2011, tỷ lệ sinh
dao động liên tục từ 1,89 đến 1,95. Tình hình tương tự sẽ xảy ra trong 10 năm
tới (2020-2029).
Đối với số lượng sinh
viên ĐH, CĐ năm 2010 là 2162.1 nghìn người đến năm 2014 số lượng tăng lên
2363.9, năm 2015 là 2118.5, đặc biệt đến năm 2016 giảm xuống còn 1767.9,
thậm chí đến năm 2017, tỷ lệ sinh viên chỉ còn 1695.9 nghìn người (năm 2018,
2019 chưa thống kê).
Bên cạnh đó, số lượng
cơ sở giáo dục đại học (không tính cao đẳng) tăng 1,7 lần trong vòng 11 năm
nhưng tổng số giảng viên, viên chức chỉ tăng 1,5 lần.
Theo GS Danh, tính đến
năm 2017 -2018, cả nước có 235 trường đại học với 84,071 viên chức, giảng viên;
số lượng sinh viên chính qui là 437,156.
Từ các số liệu trên,
GS Danh cho biết, với tình hình tỷ lệ sinh thấp, lượng người nhập học vào các
đại học Việt Nam 5 năm tới (2020-2024) sẽ tiếp tục giảm mạnh bởi ngoài việc tỷ
lệ sinh các năm tương ứng của 18 năm về trước thấp còn có nhiều lý do khác như:
việc giới trẻ chậm lập gia đình, chậm có con và không muốn có nhiều con, do
giới trẻ di cư ra nước ngoài tìm việc làm, do gia đình khá giả hơn và trẻ con
được cha mẹ gửi đi học nước ngoài chứ không chọn học trong nước…
Những khuynh hướng này
khó thay đổi ngay cả khi chúng ta dỡ bỏ trần “mỗi cặp vợ chồng chỉ có 2 con”.
GS Danh cho rằng,
người học giảm nhanh, số trường học lại không giảm, nhiều trường học sẽ phải
đối mặt với nguy cơ khủng hoảng không tuyển sinh đủ để sử dụng hiệu quả cơ sở
vật chất và trang bị đã đầu tư.
Trong khi đó, với số
lượng đại học tăng 1,7 lần nhưng giảng viên-viên chức chỉ tăng 1,5 lần cho thấy
nhân lực của hệ thống đã và đang bị dàn mỏng và điều này sẽ ngày càng trầm
trọng hơn bởi tình trạng xuất ngành như về hưu, chuyển công tác, đi nước
ngoài…trong thập niên tới.
“Những vấn đề trên đặt
ra một yêu cầu, phải sáp nhập sớm các đại học nhỏ, đại học đơn ngành vào để
thành đại học lớn và đa ngành nhằm tối ưu hóa nguồn lực xã hội đã đầu tư và
nhất là xóa được tình trạng manh mún, phân tán và yếu kém nhân lực có trình độ quốc
tế như hiện nay ở nhiều đại học. Tăng cường tính hợp tác liên ngành để tăng
trưởng chất lượng giáo dục và khoa học, công nghệ”. GS Danh chia sẻ.
Nguồn: Dân trí